Đề thi đánh giá năng lực xét tuyển sinh Đại học môn Ngữ văn - Mã đề 071 - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Câu 2. Cụm từ "ngôi làng thành thị" trong văn bản có nghĩa là gì?

A. Làng quê chuyển từ trồng trọt, chăn nuôi sang phát triển nghề buôn bán.

B. Làng quê được phát triển theo hướng đô thị hóa, tiếp nhận lối sống và văn minh phương Tây.

C. Làng được xây dựng trong phố Hà Nội xưa, giữ mối liên hệ với làng quê gốc và tinh thần đoàn kết của người nông thôn.

D. Làng quê không còn giữ được các nếp sống thuần phong mĩ tục do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây.

Câu 3. Có thể đảo trật tự trình bày của đoạn văn thứ hai và đoạn văn thứ nhất với nhau được không? Vì sao?

A. Đảo được; Vì các thông tin trong đoạn văn thứ nhất độc lập với thông tin trong đoạn văn thứ hai.

B. Đảo được; Vì cách thức trình bày thông tin trong hai đoạn văn giống nhau.

C. Không đảo được; Vì thông tin trong đoạn văn thứ nhất là cơ sở để trình bày thông tin của đoạn văn thứ hai.

D. Không đảo được; Vì tác giả muốn nhấn mạnh nội dung thông tin ở đoạn văn thứ nhất.

pdf 4 trang Bảo Ngọc 17/01/2024 460
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi đánh giá năng lực xét tuyển sinh Đại học môn Ngữ văn - Mã đề 071 - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfde_thi_danh_gia_nang_luc_xet_tuyen_sinh_dai_hoc_mon_ngu_van.pdf

Nội dung text: Đề thi đánh giá năng lực xét tuyển sinh Đại học môn Ngữ văn - Mã đề 071 - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KỲ THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC XÉT TUYỂN SINH ĐẠI HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI Bài thi: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 90 phút, không kể thời gian phát đề ĐỀ THI THAM KHẢO (Đề thi có 04 trang) Họ, tên thí sinh: Mã đề thi: 071 Số báo danh: I. PHẦN TRẮC NGHIỆM (3 điểm) I.1. Đọc văn bản 1 và trả lời các câu hỏi 1 - 5: VĂN BẢN 1 ĐÔI NÉT HÀ NỘI XƯA Mỗi ngôi làng trong phố được xây dựng dọc theo một con phố hay một đoạn phố và bao gồm các tài sản ở hai bên phố. Các làng này lại phụ thuộc vào một hay nhiều làng cùng làm một nghề thủ công. Mỗi đầu phố đều có cổng, các cổng này đóng vào ban đêm. Mỗi làng đều có bộ máy hành chính riêng, có trưởng phố, đền chùa cũng như một ngôi đình riêng. Đình là kiến trúc thuần chất nông thôn, nhưng đã được chuyển ra phố, là nơi thờ các tổ nghề hoặc thành hoàng làng gốc. Thợ thủ công và các thương nhân cùng làng quê gốc tập hợp thành các phường hội chuyên sản xuất hoặc bán một mặt hàng. Thợ kim hoàn xuất thân từ làng Châu Khê định cư tại phố Hàng Bạc ngày nay, thợ tiện gỗ ở làng Nhị Khê tập trung tại phố Tô Tịch Tinh thần đoàn kết của người nông thôn được gìn giữ trong các “ngôi làng thành thị” này và họ vẫn luôn giữ mối liên hệ với làng quê gốc thông qua việc tuyển nhân công, cung ứng nguyên liệu, ghi tên vào gia phả của làng, mang tiền kiếm được về đầu tư lại ở làng, hàng năm tham gia vào các ngày hội làng Dưới thời Lý - Trần, một ngôi chợ được hình thành ngay gần cửa phía đông thành. Phía trước mặt là đền Bạch Mã. Bên phải là sông Tô Lịch và cây cầu Đông bắc ngang nơi hiện nay là phố Hàng Đường. Ngay từ thế kỉ XI, bốn ngôi chợ lớn đã họp theo phiên ở các cửa ô kinh thành để cung cấp các loại sản phẩm cho triều đình. Các thương nhân đến từ các làng xung quanh Hà Nội. Chợ quan trọng nhất trong số bốn chợ này là chợ Cửa Đông (sau này là khu phố buôn bán) và những thương nhân của chợ này dần dần đều đến định cư ở đây. Trước đây bên cạnh hồ Hoàn Kiếm có một hồ nhỏ hơn gọi là hồ Thái Cực, thông nhau qua một con lạch đi qua quãng phố Cầu Gỗ ngày nay. Xuất xứ tên phố Cầu Gỗ chính từ chiếc cầu gỗ bắc qua lạch nước ấy. Chu vi hồ Thái Cực cũ nay thành: Cầu Gỗ, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Bè. Đất phố Đinh Liệt và Gia Ngư trước đây chính là lòng hồ Thái Cực. Khi thực dân Pháp chiếm đóng Hà Nội, hồ Thái Cực vẫn còn nhưng vào cuối thế kỉ XIX, hồ bị dân xung quanh lấp dần, khoảng năm 1920 thì hồ Thái Cực biến mất. Cái tên phố Gia Ngư bắt nguồn từ tên làng cá sống bằng nghề chài lưới bên hồ Thái Cực xưa. (Theo Nguyễn Thành Phong, in trong Phố cổ Hà Nội – Kí họa và hồi ức, Nhiều tác giả, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2015, tr. 21-23) Câu 1. Dãy liệt kê nào sau đây nêu đúng thông tin chính và trật tự trình bày thông tin trong văn bản? A. Phố, thợ thủ công, chợ, hồ. B. Chợ, thợ thủ công, hồ, làng. C. Thợ thủ công, phố, làng, hồ. D. Làng, thợ thủ công, chợ, hồ. Câu 2. Cụm từ "ngôi làng thành thị" trong văn bản có nghĩa là gì? A. Làng quê chuyển từ trồng trọt, chăn nuôi sang phát triển nghề buôn bán. B. Làng quê được phát triển theo hướng đô thị hóa, tiếp nhận lối sống và văn minh phương Tây. Trang 1/4 – Mã đề thi 071
  2. là nhờ vào sức sáng tạo bền bỉ của muôn loài. Cõi người đi lên là nhờ vào sự sáng tạo của muôn người. Đó là quy luật không còn xa lạ. [ ] (Trích Chu Văn Sơn, Cách tân: Đi tìm cái mới hay cái tôi? in trong Đa mang, một cõi lòng không yên định, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2021, tr. 223) Câu 6. Vấn đề được nghị luận trong văn bản trên là gì? A. Cách tân và vai trò của cách tân. B. Cách tân và lí do phải cách tân. C. Cách tân và sự phát triển. D. Cách tân và người cách tân. Câu 7. Theo quan điểm của tác giả, cách tân là gì? A. Là tạo ra sự khác biệt. B. Là khai sinh một hệ giá trị mới. C. Là thuộc tính của sáng tạo. D. Là khắc phục những bất cập của cái cũ. Câu 8. Các thao tác nghị luận nào đã được sử dụng trong đoạn (1) của văn bản? A. Giải thích, phân tích, so sánh. B. Giải thích, phân tích, bác bỏ. C. Giải thích, chứng minh, so sánh. D. Giải thích, so sánh, bác bỏ. Câu 9. Theo tác giả văn bản, vì sao người cách tân chân chính “có thể trắng tay như không”? A. Vì họ phiêu lưu, mạo hiểm. B. Vì họ nóng vội, dị ứng với cái cũ. C. Vì họ vấp phải sự chống trả của cái cũ. D. Vì họ ảo tưởng, xa rời thực tế. Câu 10. Nhận định nào sau đây không thể hiện đúng mục đích của tác giả trong văn bản? A. Phản đối những cách tân thất bại. B. Phản ứng quyết liệt trước cái cũ. C. Cổ vũ cho những cách tân. D. Cổ vũ cho những người cách tân chân chính. I.3. Đọc văn bản 3 và trả lời các câu hỏi 11 - 15: VĂN BẢN 3 ANH HAI - Ăn thêm cái nữa đi con! - Ngán quá, con không ăn đâu! - Ráng ăn thêm một cái, má thương. Ngoan đi cưng! - Con nói là không ăn mà. Vứt đi! Vứt nó đi! Thằng bé lắc đầu quầy quậy, gạt mạnh tay, chiếc bánh kem văng qua cửa xe rơi xuống đường, sát mép cống. Chiếc xe hơi láng bóng rồ máy chạy đi. Hai đứa trẻ đang bới móc đống rác gần đó, thấy chiếc bánh nằm chỏng chơ, xô đến nhặt. Mắt hai đứa sáng rực lên, dán chặt vào chiếc bánh thơm ngon. Thấy bánh lấm láp, đứa con gái nuốt nước miếng bảo thằng con trai: - Anh Hai thổi sạch rồi mình ăn. Thằng anh phùng má thổi. Bụi đời đã dính, chẳng chịu đi cho. Đứa em suốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó làm bánh rơi tõm xuống cái cống hôi hám, chìm hẳn. - Ai biểu anh Hai thổi chi cho mạnh - Con bé nói rồi thút thít. Trang 3/4 – Mã đề thi 071